Báo cáo tổng kết thi hành pháp luật về việc làm

Ngày đăng: 18/12/2013 - 3573 lượt đọc

Báo cáo tổng kết thi hành pháp luật về việc làm

Thứ tư, 18 tháng 12 năm 2013 15:42

BÁO CÁO TỔNG KẾT

THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ VIỆC LÀM

Nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật việc làm phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội mới hiện nay của đất nước, tại Nghị quyết số 07/2011/QH13 của Quốc hội về chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2012 và điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011đã quyết định xây dựng Luật Việc làm.

Để triển khai nhiệm vụ soạn thảo Luật Việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (là cơ quan được giao nhiệm vụ chủ trì theo Quyết định số 1681/QĐ-TTg ngày 27/09/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phân công cơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật, pháp lệnh thuộc Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 và các dự án luật, pháp lệnh được điều chỉnh trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011 của Quốc hội) đã đề nghị Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức tổng kết đánh giá tình hình thi hành pháp luật về việc làm. Trên cơ sở 34 Báo cáo tổng kết của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh/thành phốđịa phương và từ thực tiễn quản lý nhà nước về việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiến hành tổng kết đánh giá tình hình thi hành pháp luật về việc làmtrên 3 nội dung chính sau đây:

- Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về việc làm.

- Công tác quản lý nhà nước về việc làm.

- Đánh giá việc thi hành pháp luật và chính sách về việc làm.

I.       CÔNG TÁC XÂY DỰNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VỀ VIỆC LÀM

1.     Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về việc làm

- Bộ luật Lao động năm 1994, có hiệu lực từ ngày 1/1/1995 đã dành riêng Chương II quy định những vấn đề cơ bản về việc làm như: quyền tự do việc làm của người lao động, quyền tuyển chọn và sử dụng lao động của người lao động, trách nhiệm tạo việc làm của nhà nước, chỉ tiêu tạo việc làm, chương trình và quỹ quốc gia về việc làm, tổ chức giới thiệu việc làm...Ngoài ra, Bộ luật Lao động còn có những quy định về chính sách việc làm đối với một số đối tượng đặc thù như lao động nữ (Chương X), lao động là người tàn tật, lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, lao động Việt Nam làm việc cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam, lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài (chương XI). Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhất điều chỉnh các quan hệ việc làm.

- Tiếp đó cùng với sự phát triển của các quan hệ xã hội về việc làm, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung chương Việc làm Bộ luật Lao động 1 lần vào năm 2002; ban hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 (Chương V-Bảo hiểm thất nghiệp), Luật Người khuyết tật năm 2010 (Chương V-Dạy nghề và Việc làm)..... nhằm điều chỉnh đầy đủ và toàn diện hơn quan hệ việc làm của một số đối tượng đặc thù và các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp đến quan hệ việc làm như: lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, bảo hiểm thất nghiệp, việc làm với người khuyết tật...

- Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 8 Nghị định, 7 Quyết định; sửa đổi, bổ sung 5 Nghị định, 1 Quyết định; hủy bỏ, thay thế 2 Nghị định để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật Bảo hiểm xã hội (chương V-Bảo hiểm thất nghiệp);

- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ: Lao động – Thương binh và Xã hội, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Quốc phòng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam... đã ban hành  29 Thông tư và Thông tư liên tịch, 5 Quyết định; sửa đổi, bổ sung 4 Thông tư; hủy bỏ, thay thế 5 Thông tư để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội (Chương V-Bảo hiểm thất nghiệp), các Nghị định Chính phủ và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. (danh mục các văn bản quy phạm pháp luật kèm theo)

- Ngoài các văn bản kể trên, còn có 2 công ước của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) (Công ước số 100 về trả công bình đẳng giữa lao động nam và nữ cho một công việc ngang nhau năm 1959, Công ước số 111 về Phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp năm 1958) mà nước ta phê chuẩn, gia nhập là các nguồn pháp luật quan trọng cho việc tổ chức thực hiện pháp luật việc làm. Dự kiến cuối năm nay, sẽ trình Chủ tịch nước phê chuẩn việc gia nhập Công ước 122 về chính sách việc làm.

2. Mặt được

- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về việc làm đã cơ bản hình thành, tạo hành lang pháp lý cho các quan hệ xã hội về việc làm, thị trường lao động phát triển theo các quy luật của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần thúc đẩy và bảo đảm việc làm cho người lao động.

- Việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về việc làm đã xuất phát từ thực tiễn của các quan hệ xã hội về việc làm, dựa trên sự tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về việc làm; tiếp thu các Điều ước, Công ước quốc tế mà nước ta đã phê chuẩn; tham khảo rộng rãi và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng pháp luật lao động của các quốc gia trên thế giới, bước đầu đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước về việc làm.

3. Mặt hạn chế

- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về việc làm còn thiếu tính hệ thống và đồng bộ. Do được vận hành bởi rất nhiều luật và văn bản dưới luật khác nhau có liên quan như Bộ Luật lao động, Luật bảo hiểm xã hội, Luật người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, Luật người khuyết tật và các văn bản do Chính phủ, các Bộ, ngành ban hành nên hệ thống pháp luật về việc làm còn manh mún, tản mạn, thiếu thống nhất, không những dễ xảy ra xung đột pháp luật, phá vỡ nguyên tắc thống nhất của các quy phạm pháp luật mà còn gây khó khăn cho công tác tập hợp, hệ thống hoá pháp luật cũng như khi cần áp dụng luật phải tìm và vận dụng ở nhiều văn bản khác nhau.

- Hầu hết các quy định pháp luật  cụ thể về việc làm được thể hiện trong các Nghị định, Quyết định, Thông tư hướng dẫn thi hành...nên tính pháp lý chưa cao, gây nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai;

- Một số quy định pháp luật về việc làm còn mang nặng tính tuyên ngôn pháp lý, hoặc tính định hướng, dự báo; phản ánh chưa đầy đủ những nhu cầu của xã hội và chưa phù hợp với đối tượng tác động, các chế tài còn chưa đủ độ mạnh cần thiết nên hiệu quả áp dụng không cao.

- Cơ sở pháp lý quan trọng nhất điều chỉnh các quan hệ xã hội về việc làm là Bộ luật Lao động (Chương II - Việc làm) được xây dựng và hình thành trong giai đoạn nền kinh tế nước ta vừa mới chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên những vấn đề chủ yếu của kinh tế thị trường nói chung, của thị trường lao động và quan hệ việc làm nói riêng mới chỉ ở giai đoạn sơ khai, chưa bộc lộ hết những yêu cầu của nó. Mặc dù đã sửa đổi, bổ sung 1 lần Chương Việc làm, Bộ luật Lao động vào năm 2002, đồng thời ban hành mới một số văn bản Luật để kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội về việc làm; song, do sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các quan hệ việc làm ngày càng phát triển về số lượng, phong phú và đa dạng về hình thức, cho nên quá trình thực hiện các chính sách, pháp luật về việc làm đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, phát sinh một số vấn đề mới về quan hệ việc làm cần được điều chỉnh trong 1 văn bản Luật thống nhất.

II. CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VIỆC LÀM

1.     Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về việc làm

1.1. Mặt được:

- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tích cực ban hành các văn bản hướng dẫn, tổ chức tập huấn, hướng dẫn các địa phưong trong việc thực hiện các chính sách, pháp luật về việc làm, bảo hiểm thất nghiệp, các chương trình, đề án về việc làm…

- Các ngành, các cấp và các địa phương đã tích cực, chủ động triển khai các chính sách, pháp luật về việc làm, chính sách bảo hiểm thất nghiệp, các chương trình, đề án về việc làm, lồng ghép mục tiêu giải quyết việc làm trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội....; công tác thông tin thị trường lao động và quản lý lao động cũng ngày càng được quan tâm đã góp phần thúc đẩy và bảo đảm việc làm cho người lao động.

- Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về việc làm  đã được các cơ quan, tổ chức và các địa phương đặc biệt quan tâm chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện. Với vai trò là cơ quan quan lý nhà nước về  lĩnh vực việc làm, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã hệ thống các văn bản quy định, biên soạn tài liệu tuyên truyền hướng dẫn nghiệp vụ, tờ rơi... in và phát cho các địa phương.

- Các cơ quan báo chí, đài phát thanh và truyền hình trung ương, địa phương như: Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam, báo Lao động- xã hội, báo Lao động…. đã đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền chính sách về việc làm, chính sách bảo hiểm thất nghiệp…. bằng các hình thức như: chuyên đề, chuyên mục, các buổi tọa đàm, đưa tin về các gương điển hình của thanh niên trong tạo việc làm,….

- Công tác đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ, công chức làm công tác lao động – việc làm đã được ngành lao động thương binh và xã hội và các đoàn thể, tổ chức xã hội  triển khai từ nhiều năm nay tác động tích cực đến việc triển khai, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về việc làm ở địa phương.

- Nhận thức của các cấp, các ngành, các địa phương về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm ngày càng được nâng cao. Người lao động từ chỗ trông chờ, ỷ lại vào nhà nước đã trở nên chủ động, tích cực tìm kiếm việc làm, tạo việc làm cho bản thân và người khác.

1.2. Mặt hạn chế:

- Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chưa sâu rộng, còn mang tính hình thức. Đối tượng tuyên truyền, phổ biến chủ yếu là cán bộ, công chức các cơ quan, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội từ cấp tỉnh đến cấp xã có liên quan đến hoạt động này. Đối với người dân, ít được phổ biến trực tiếp. Đối với doanh nghiệp, việc tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật về lĩnh vực này chỉ nhằm mục đích chính là phục vụ cho tuyển dụng lao động, chưa đảm bảo để người lao động hiểu biết đầy đủ pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi của mình.

- Nhận thức của doanh nghiệp và người lao động chưa đúng mức về trách nhiệm của mình trong giải quyết việc làm, về ý nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động đánh giá kỹ năng trong việc cung cấp nguồn nhân lực kỹ thuật phục vụ phát triển bền vững kinh tế- xã hội; các hiệp hội nghề nghiệp chưa tích cực tham gia hoạt động đánh giá kỹ năng nghề.

- Công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở một số địa phương, đơn vị còn chậm; hình thức thông tin, tuyên truyền chưa phù hợp dẫn đến một bộ phận không nhỏ người lao động, người sử dụng lao động không nắm bắt được thông tin cơ bản về đăng ký thất nghiệp, hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp, hưởng bảo hiểm thất nghiệp.

2. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về việc làm

2.1. Mặt được:

- Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thi hành pháp luật về việc làm đã được củng cố, tăng cường một bước.

Đã hình thành hệ thống thanh tra nhà nước chuyên ngành về lao động (trogn đó có lĩnh vực việc làm) với hơn 300 thanh tra viên lao động từ trung ương đến địa phương; một số địa phương đã tăng cường lực lượng thanh tra viên lao động (thành phố Hồ Chí Minh từ 18 lên 30, Đồng Nai từ 9 lên 17, Bình Dương từ 6 lên 10), tăng cường thanh tra lao động tới cấp huyện.

- Qua thanh tra, kiểm tra đã góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về việc làm của người sử dụng lao động và người lao động ở nơi đến thanh tra, phát hiện những vi phạm nghiêm trọng, lập lại kỷ cương trong lao động, sử dụng và quản lý lao động.

- Đã từng bước đổi mới hình thức thanh tra như: cử thanh tra viên phụ trách vùng, thực hiện cơ chế doanh nghiệp tự kiểm tra.

2.2. Mặt hạn chế

- Số lượng thanh tra viên lao động thấp. Thanh tra viên lao động hiện nay mới chỉ tập trung ở cấp Trung ương và cấp Tỉnh, trong khi tại cấp huyện, khu công nghiệp, khu chế xuất chưa được bố trí tăng cường.

- Năng lực thanh tra viên lao động còn chưa đồng đều giữa trung ương và địa phương, giữa các địa phương.

- Công tác kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về việc làm còn hạn chế.

+ Việc kiểm tra, giám sát các quy định về dự án cho vay giải quyết việc làm chưa được thường xuyên dẫn đến một số dự án hiệu quả thấp, nợ tồn đọng dẫn tới xoá nợ.

+ Chưa có quy định xử lý nghiêm khắc các hành vi vi phạm việc sử dụng Sổ lao động;

+ Chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật đối với lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài chưa nghiêm, chưa đủ sức răn đe. Tình trạng lao động bỏ trốn, phá hợp đồng ra ngoài làm việc, nấu rượu lậu, đánh bạc, đánh nhau, trộm cắp...ở mức độ khác nhau vẫn diễn ra ảnh hưởng đến uy tín, hình ảnh của lao động cũng như đất nước, con người Việt Nam ở nước ngoài. Chính vì vậy, trong một số thời điểm, một số nước đã ngừng cấp thị thực (visa) hoặc không nhận lao động của một số địa phương sang làm việc (Nhật, Anh, Catar, Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất) hoặc đóng cửa một phần thị trường với lao động Việt Nam (Đài Loan); một bộ phận lao động phải về trước thời hạn do nguyên nhân chủ quan.

3. Các hoạt động quản lý nhà nước khác về việc làm

3.1. Mặt được :

- Các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức có liên quan đã phối hợp chặt chẽ trong việc hoạch định, ban hành chính sách về việc làm nên rất nhiều chính sách đã được ban hành kịp thời, phù hợp với thực tiễn cuộc sống.

- Việc tổ chức thực thi chính sách pháp luật về việc làm đã được các Bộ, ngành, địa phương phối hợp triển khai kịp thời góp phần đưa các chính sách pháp luật về việc làm vào cuộc sống góp phần tạo thêm nhiều việc làm, việc làm bền vững cho người lao động.

- Hệ thống thông tin cung cầu lao động làm cơ sở hoạch định chính sách quốc gia, quy hoạch, kế hoạch về nguồn nhân lực, phân bố và sử dụng lao động toàn xã hội đã từng bước được hình thành và hoàn thiện.

- Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực việc làm ngày càng được tăng cường cả về chiều rộng và chiều sâu; việc nghiên cứu, phê chuẩn công ước về việc làm của tổ chức lao động quốc tế (ILO) đang được tiếp tục đẩy mạnh.

3.2. Mặt hạn chế :

- Trách nhiệm báo cáo tình hình quản lý lao động trong các doanh nghiệp khu chế xuất, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội thực hiện nghiêm chỉnh do đó Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội có thể nắm bắt, tổng hợp được sô liệu người lao động trong phạm vi cả nước.

- Công tác phối hợp liên ngành giữa Bộ LĐTBXH, Bộ Ngoại Giao, Bộ Công An trong việc quản lý doanh nghiệp và người lao động vẫn còn những hạn chế. 50/63 tỉnh, thành phố không nắm đươc số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài trở về nước.

- Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng trong việc quản lý lao động nước ngoài, dẫn đến việc theo dõi, quản lý lao động nước ngoài chưa chặt chẽ. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Công an với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trong việc quản lý xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú và quản lý lao động đối với người nước ngoài, do đó một số năm gần đây chúng ta không quản lý được việc một số nhà thầu nước ngoài như Trung Quốc, Singapore…. đưa lao động phổ thông (chưa qua đào tạo) vào làm việc tại Việt Nam theo dự án.

III. ĐÁNH GIÁ VIỆC THI HÀNH PHÁP LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH VỀ VIỆC LÀM

1. Về những quy định chung về việc làm

1.1. Mặt được:

- Đã khẳng định quyền làm việc và tự do lựa chọn việc làm của người lao động, quyền tuyển chọn và sử dụng lao động của người sử dụng lao động.

- Đưa ra một quan niệm mới về việc làm: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm" (Điều 13). Với quan niệm này thì người lao động đã đứng vào vị trí trung tâm, năng động và chủ động tự tạo việc làm cho mình và cho người khác ở tất cả các thành phần kinh tế, không thụ động, trông chờ, ỷ lại vào sự bố trí việc làm của Nhà nước.

- Đưa ra khái niệm và quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện chỉ tiêu tạo việc làm. Những năm qua chỉ tiêu tạo việc làm đã đóng vai trò lớn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, phản ánh được trình độ phát triển kinh tế xã hội, ổn định kinh tế của đất nước

1.2. Mặt hạn chế:

- Chưa có quy định giải thích các khái niệm: thị trường lao động, lực lượng lao động, thất nghiệp....

- Chưa có quy định về các chỉ tiêu của thị trường lao động để có thể đánh giá được sự phát triển của thị trường lao động.

- Chưa có quy định về quyền, nghĩa vụ của người lao động, người sử dụng lao động trong thị trường lao động

- Trong hiện tại và tương lai giải quyết việc làm phải hướng tới vấn đề về chất lượng, đảm bảo “việc làm bền vững”, “việc làm xanh”,... thì chỉ tiêu “Tạo việc làm mới” bộc lộ nhiều hạn chế, khó khăn về phương thức tính toán, không phân biệt theo ngành nghề, giới tính, khu vực nông thôn/thành thị, không đảm bảo tính so sánh quốc tế, độ tin cậy thấp, phản ánh không sát với thực tế.

1.3. Đề xuất hướng hoàn thiện trong Luật Việc làm:

- Thay chỉ tiêu “Tạo việc làm mới” bằng chỉ tiêu “Tăng trưởng việc làm”

- Bổ sung quy định về các chỉ tiêu của thị trường lao động để quy định các chỉ tiêu Tỷ lệ dân số tham gia hoạt động kinh tế, Tỷ số việc làm trên dân số, Tỷ lệ  tăng trưởng việc làm, Tỷ lệ thất nghiệp, Tỷ lệ thiếu việc làm

- Có quy định giải thích thuật ngữ để giải thích các khái niệm cơ bản về việc làm như: người lao động, người sử dụng lao động, lực lượng lao động, thất nghiệp....

- Quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của người lao động, người sử dụng lao động và trách nhiệm của nhà nước về việc làm.

2. Chính sách việc làm

2.1. Mặt được:

- Các chính sách về việc làm đã được ban hành tương đối đầy đủ, toàn diện trong nhiều văn văn bản, nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm: Chính sách chung về việc làm (quyền và nghĩa vụ của người lao động về việc làm, trách nhiệm của Nhà nước về việc làm,...); Chính sách hỗ trợ để tạo và tự tạo việc làm cho người lao động (Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, dự án cho vay giải quyết việc làm...); Chính sách hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài (cho vay tín dụng, bồi dưỡng kiến thức, nghề nghiệp trước khi đi lao động ở nước ngoài,…..)

- Đã ban hành một số chính sách riêng về việc làm cho các đối tượng đặc thù: lao động nữ, lao động là người khuyết tật như: bảo đảm việc làm cho lao động nữ, chống phân biệt đối xử đối với lao động nữ, ưu tiên tuyển dụng lao động nữ, khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ,....; hỗ trợ dạy nghề cho người khuyết tật, hỗ trợ hộ gia đình và người khuyết tật tạo việc làm, chính sách khuyến khích nhận người khuyết tật vào làm việc tại doanh nghiệp.... Những chính sách này đã tạo môi trường thuận lợi cho lao động nữ, lao động là người khuyết tật bình đẳng tham gia thị trường lao động, tạo cơ hội cho họ tìm việc làm và tự tạo việc làm, từng bước cải thiện thu nhập, ổn định cuộc sống, bảo đảm việc làm bền vững.

- Chương trình việc làm được chỉ đạo xây dựng đến từng cấp địa phương, đã tạo được sự chuyển biến tích cực trong nhận thức về tạo mở việc làm, thông qua phát triển kinh tế và phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế. Bằng cơ chế, chính sách, pháp luật đã thực sự giải phóng sức sản xuất, giải phóng sức lao động, tạo môi trường lành mạnh để nhân dân đầu tư phát triển sản xuất tạo và tự tạo nhiều việc làm. Quỹ quốc gia về việc làm đã góp phần tích cực, tạo “cú huých” kích thích nhân dân đầu tư vốn tạo việc làm, góp phần từng bước chuyển dịch cơ cấu sản xuất dẫn đến chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng tích cực.

- Các chính sách giải quyết việc làm, chương trình quốc gia về việc làm được ưu tiên thúc đẩy trong chương trình phát triển kinh tế xã hội của cả nước, đã góp phần tạo ngày càng nhiều việc làm (mỗi năm khoảng 1,5-1,7 triệu việc làm) và giảm tỷ lệ thất nghiệp của người lao động (tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị năm 2010 là 4,43%).

- Các chính sách hỗ trợ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài như: cho vay tín dụng, hỗ trợ học nghề, bồi dưỡng ngoại ngữ, kiến thức cần thiết trước khi đi làm việc ở nước ngoài….. được triển khai thực hiện từ trung ương đến địa phương đã góp phần nâng cao số lượng lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài (trung bình mỗi năm khoảng 70-80 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài).

2.2. Mặt hạn chế:

* Về các quy định pháp luật:

- Chính sách về việc làm nằm rải rác, tản mát ở nhiều văn bản (như: Bộ luật Lao động, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật Người khuyết tật….), xuất hiện sự chưa đồng bộ giữa các văn bản cả về nội dung và thời gian gây lúng túng cho việc tổ chức thực hiện. Ví dụ:  như chính sách việc làm cho người khuyết tật được quy định không thống nhất trong Bộ luật Lao động năm 1994 và Luật Người khuyết tật năm 2010.

- Chính sách việc làm hiện nay chủ yếu mới chú trọng đến tạo việc làm (càng nhiều việc làm càng tốt), chưa chú trọng đến chất lượng việc làm cho nên tính ổn định, bền vững trong việc làm và hiệu quả tạo việc làm còn thấp.

- Hiện nay, mới chỉ có chính sách tạo việc làm chung và cho một số đối tượng đặc thù chưa có chính sách việc làm theo ngành, vùng kinh tế nên sự chuyển dịch cơ cấu lao động còn chậm, lao động chủ yếu làm trong lĩnh vực nông nghiệp hoặc khu vực phi chính thức có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp.

- Một số quy định về chính sách việc làm còn mang nặng tính tuyên ngôn pháp lý, chưa có quy định hướng dẫn cụ thể (như: chính sách miễn giảm thuế để khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị và cá nhân tạo việc làm cho nhiều người lao động; chính sách khuyến khích đưa nhiều lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật đi làm việc ở nước ngoài có thu nhập cao; đi làm việc tại các công trình, dự án do doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước trúng thầu, nhận thầu, đầu tư ở nước ngoài; chính sách hỗ trợ người lao động sau khi về nước; chính sách miễn giảm thuế, ưu đãi thuế đối với những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ, sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật....) nên giá trị thực tế, tính khả thi chưa cao.

- Hiện nay chúng ta mới chỉ có các quy định về chính sách việc làm cho lao động nữ, lao động là người khuyết tật rải rác trong Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật Người khuyết tật; các đối tượng đặc thù khác như: lao động là người dân tộc thiểu số, thanh niên, người sau cai nghiện, mãn hạn tù, lao động phi chính thức.... chưa có chính sách riêng.

- Chưa có chính sách khuyến khich người lao động đi làm việc ở nước ngoài và gia đình họ đầu tư sản xuất, kinh doanh, sử dụng hiệu quả thu nhập có được từ việc đi lao động ở nước ngoài

- Các quy định về Quỹ giải quyết việc làm chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời gây khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện như: quy định về mức vay còn mang tính bình quân, chưa gắn với nhu cầu của các dự án; chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về việc vay vốn của Trung tâm giáo dục; quy định về việc giao trách nhiệm cho Ngân hàng chính sách xã hội địa phương tổ chức thực hiện cho vay từ khâu hướng dẫn xây dựng dự án đến khi giải ngân, xem xét xóa nợ mà không có sự phối hợp của các cơ quan liên quan dẫn đến các dự án cho vay không đảm bảo hiệu quả, mục tiêu của chương trình…. Quy định về chính sách hỗ trợ tín dụng cho người nghèo, người dân tộc thiểu số đi lao động ở nước ngoài chưa thống nhất, đồng bộ về mức vay và lãi suất cho vay

- Những quy định về việc làm đối với các đối tượng đặc thù mới chỉ dừng ở những quy định về chính sách hỗ trợ việc làm của nhà nước đối với các đối tượng đặc thù, chưa có quy định về việc bảo đảm việc làm, bình đẳng về việc làm đối với các đối tượng này.

* Về tổ chức thực hiện:

- Theo quy định các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội phải gắn với kế hoạch tạo việc làm tuy nhiên, nhiều chương trình, dự án khi triển khai không gắn với quy hoạch nguồn nhân lực cũng như kế hoạch tạo việc làm cho người lao động dẫn đến tình trạng nhiều dự án đưa vào hoạt động nhưng không tuyển được lao động hoặc có tuyển được lao động nhưng không đáp ứng yêu cầu, đồng thời cũng ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện của bản thân các chương trình, dự án.

- Hàng năm, ngân sách Trung ương chỉ phân bổ cho Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm khoảng 300 - 400 tỷ đồng, (giai đoạn 2006-2010 là 1.766 tỷ đồng đạt 76,9% theo quy định tại Quyết định số 101/2007/QĐ-TTg), trong đó nguồn vốn bổ sung mới cho Quỹ Quốc gia về việc làm mới đạt 68,05% theo quy định tại Quyết định số 101/2007/QĐ-TTg, mới đáp ứng được 35-40% nhu cầu vay vốn của nhân dân.

- Việc lập Quỹ giải quyết việc làm địa phương cũng chưa được tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiện mới chỉ có 47/63 địa phương thành lập Quỹ việc làm địa phương.. Một số địa phương chưa thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật về cơ chế quản lý, điều hành vốn cho vay từ Quỹ quốc gia về việc làm như: cho vay sai mục đích, người vay cố tình chây ỳ, không muốn trả nợ....

2.3. Đề xuất hướng hoàn thiện trong Luật Việc làm:

- Cần có quy định cụ thể về chính sách phát triển việc làm chung của nhà nước, trong đó nhà nước không chỉ có trách nhiệm tạo việc làm mà phải có trách nhiệm định hướng phát triển việc làm hướng tới thúc đẩy và bảo đảm việc làm bền vững cho người lao động; quy định về các giải pháp cụ thể của nhà nước.

- Bổ sung quy định về chính sách phát triển việc làm theo ngành, vùng kinh tế

- Rà soát và quy định cụ thể các chính sách hỗ trợ việc làm của nhà nước.

- Bổ sung quy định về chính sách khuyến khích người lao động đi làm việc ở nước ngoài và gia đình họ đầu tư sản xuất, kinh doanh, sử dụng hiệu quả thu nhập có được từ việc đi lao động ở nước ngoài

- Bỏ quy định về Quỹ việc làm địa phương.

- Sửa đổi, bổ sung những quy định còn hạn chế trong việc quản lý, sử dụng Quỹ quốc gia về việc làm, Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước.

- Rà soát, bổ sung thêm quy định về chính sách việc làm cho các đối tượng đặc thù khác như:  lao động là người dân tộc thiểu số, thanh niên, người sau cai nghiện, mãn hạn tù....

- Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành theo quan điểm bình đẳng, nâng cao cơ hội việc làm và bảo vệ quyền làm việc của lao động đặc thù.

3. Quản lý lực lượng lao động

3.1. Mặt được:

- Bộ luật Lao động năm 1994 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có quy định để quản lý lao động làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân Việt Nam như: quản lý lao động thông qua sổ lao động, khai trình sử dụng lao động và báo cáo chấm dứt sử dụng lao động; trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về lao động; quản lý lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.....

- Quá trình thực hiện quản lý lao động thông qua Sổ lao động ban đầu cũng thu được một số kết quả tích cực như quản lý được số lao động  (lao động có quan hệ lao động), quản lý được số lao động dịch chuyển trong các doanh nghiệp, khu công nghiệp, khu chế xuất...Các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tích cực trong việc đôn đốc, chỉ đạo và theo dõi các doanh nghiệp thực hiện việc sử dụng Sổ lao động khi tuyển lao động, sử dụng lao động và giải quyết các chế độ chính sách đối với người lao động.

- Các quy định về việc tuyển chọn, sử dụng và quản lý người lao động Việt Nam làm việc cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam đã được ban hành tương đối đầy đủ, phù hợp với luật pháp quốc tế, tình hình thực tiễn của Việt Nam góp phần thúc đẩy việc làm cho lao động trong nước và bảo đảm bí mật, an ninh quốc gia.

3.2. Mặt hạn chế:

- Các quy định pháp luật hiện hành mới chỉ quản lý được lao động có quan hệ lao động ( bao gồm lao động làm việc cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân Việt Nam; lao động làm việc cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam; lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng), nắm bắt được sự dịch chuyển lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, dịch chuyển lao động từ trong nước ra nước ngoài; chưa quản lý được lao động và dịch chuyển lao động trong khu vực phi chính thức do đó chưa quản lý được toàn bộ lực lượng lao động và sự dịch chuyển lao động của toàn bộ lực lượng lao động (là cơ sở để hoạch định chính sách việc làm, điều tiết thị trường lao động cả nước). Chưa có quy định về việc quản lý lao động làm việc ở nước ngoài sau khi trở về nước...

- Việc quản lý lao động thông qua Sổ lao động không phát huy được nhiều hiệu quả trên thực tế. Số người lao động và người sử dụng lao động dùng đến Sổ lao động còn chiếm tỷ lệ thấp, chưa phải là phổ biến trong quan hệ lao động. (Theo báo cáo của 53 Sở lao động – Thương binh và Xã hội thì đến hết năm 2010, số người lao động được cấp sổ lao động là: 2.748.705 người, trong khi đó, theo số liệu của các địa phương báo cáo tính đến hết năm 2009 (nguồn Vụ LĐ-TL), cả nước có khoảng 248.842 doanh nghiệp với tổng số lao động có giao kết hợp đồng lao động khoảng 8.921.536 lao động). Sự cập nhật các thông tin của người lao động trong Sổ lao động chưa được thường xuyên; các thông tin trước đây của người lao động còn thiếu và độ chính xác chưa cao... chưa giúp cho người sử dụng lao động trong việc đào tạo và sử dụng người lao động;

- Các doanh nghiệp không thực hiện nghiêm chỉnh trách nhiệm báo cáo tình hình sử dụng lao động theo định kỳ; các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương không báo cáo hoặc báo cáo không đầy đủ nên Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội không cập nhật được tình hình biến động của lao động nhất là những địa phương tập trung đông lực lượng lao động

3.3. Đề xuất hướng hoàn thiện trong Luật Việc làm:

- Bổ sung các quy định về quản lý lực lượng lao động trong đó lưu ý đến vấn đề ứng dụng khoa học – công nghệ trong quản lý

- Bỏ quy định về quản lý lao động thông qua Sổ lao động, thay thế bằng việc quản lý lao động thông qua thẻ lao động

- Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về quản lý lao động làm việc cho các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước (thay thế quy định về chế độ báo cáo tình hình sử dụng lao động theo định kỳ hàng năm của doanh nghiệp bằng quy định về trách nhiệm đăng ký và khai báo khi chấm dứt sử dụng lao động)

- Bổ sung quy định quản lý lao động Việt Nam sau khi đi làm việc ở nước ngoài trở về nước

4. Quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam

4.1. Mặt được:

- Các quy định về việc quản lý, tuyển dụng, cấp giấy phép đối với lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam đã được ban hành tương đối đầy đủ và sửa đổi, bổ sung kịp thời bước đầu đã quản lý được lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam thông qua công cụ quản lý là giấy phép lao động góp phần bảo đảm việc làm cho lao động trong nước cũng như tận dụng được nguồn lao động nước ngoài có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, đồng thời giữ vững ổn định chính trị, an ninh của đất nước.

- Các quy định về quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam được các doanh nghiệp thực hiện tương đối nghiêm chỉnh. Phần lớn lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam là những người có trình độ chuyên môn tay nghề, trong đó: Lao động có trình độ đại học và trên đại học chiếm 85% so với tổng số lao động; Lao động có kinh nghiệm làm việc từ 5 năm trở lên chiếm 13%; Lao động là nghệ nhân, ngành nghề truyền thống chiếm 2%.

4.2. Mặt hạn chế:

- Một số quy định về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam còn hạn chế, chậm được sửa đổi, bổ sung. Ví dụ: quy định về điều kiện đối với lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam phải có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, trong khi chưa có tiêu chí cụ thể để xác định lao động nước ngoài có trình độ cao vào làm việc tại Việt Nam hiện nay, việc xác định không dựa vào kỹ năng nghề nghiệp mà chủ yếu vẫn dựa trên bằng cấp đạt được hoặc kinh nghiệm khai theo lý lịch của người lao động gây khó khăn trong khâu thẩm định, cấp giấy phép lao động đối với lao động nước ngoài làm hạn chế giá trị thực tiễn của các quy định về quản lý, cấp giấy phép lao động đối với lao động nước ngoài. Mặt khác, quy định này không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay là có những công việc đơn giản nhưng lao động Việt Nam không thể đáp ứng được hoặc đáp ứng không đủ và các nhà thầu nước ngoài buộc phải đưa lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc song không được cấp giấy phép lao động gây thất thu cho ngân sách nhà nước và bỏ sót một bộ phận lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không được quản lý.

- Nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện nghiêm túc hoặc cố tình không thực hiện các quy định của pháp luật lao động quy định về tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài như: Lao động nước ngoài không chuẩn bị đủ các giấy tờ để xin cấp giấy phép lao động; người sử dụng lao động không thực hiện đúng các quy định về việc trình tự, thủ tục tuyển dụng lao động nước ngoài và làm các thủ tục xin cấp giấy phép lao động cho lao động nước ngoài trước khi vào Việt Nam làm việc, không báo cáo kịp thời và đầy đủ việc sử dụng…

4.3. Đề xuất hướng hoàn thiện trong Luật Việc làm:

- Thay thế phương thức quản lý lao động nước ngoài thông qua việc hạn chế điều kiện đối với lao động nước ngoài: phải có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao bằng việc quy định trách nhiệm của doanh nghiệp, cơ quan tổ chức phải gửi yêu cầu tuyển lao động Việt Nam vào các vị trị công việc có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài đến tổ chức dịch vụ việc làm công. Nếu tổ chức dịch vụ việc làm công không đáp ứng được thì doanh nghiệp, cơ quan tổ chức có quyền tuyển lao động nước ngoài.

5. Dịch vụ việc làm

5.1. Mặt được:

- Hệ thống khung pháp lý về hoạt động giới thiệu việc làm ngày càng hoàn thiện, đã tạo cơ sở pháp lý cho việc thành lập, hoạt động, quy hoạch và quản lý được hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm và các doanh nghiệp hoạt động giới thiệu việc làm

- Hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm đã được hình thành và ngày càng phát triển, không chỉ trong hệ thống ngành Lao động-Thương binh và Xã hội mà còn mở rộng ra các ngành, lĩnh vực khác và các tổ chức đoàn thể (Hiện nay, cả nước có 64 Trung tâm thuộc ngành Lao động – Thương binh và Xã hội và 66 Trung tâm thuộc hội đoàn thể quần chúng và Bộ quốc phòng)

- Vai trò của Trung tâm giới thiệu việc làm đã từng bước được thừa nhận, hoạt động giới thiệu việc làm đã được các cấp, các ngành và các tổ chức chính trị - xã hội bước đầu tạo điều kiện về mặt bằng, cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài chính, cán bộ, đồng thời được một số tổ chức quốc tế quan tâm hỗ trợ về kỹ thuật và cơ sở vật chất.

- Hoạt động của các doanh nghiệp giới thiệu việc làm được chấn chỉnh, không còn tình trạng lợi dụng hoạt động giới thiệu việc làm để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nhằm thu lợi bất chính, gây thiệt thòi cho người lao động và mất trật tự, an ninh xã hội.

5.2. Mặt hạn chế:

* Về các quy định pháp luật:

-  Chưa chấp nhận hoàn toàn tính “thị trường” của dịch vụ việc làm, thể hiện qua việc sử dụng tên “giới thiệu việc làm”.

- Quy định về tổ chức hệ thống các trung tâm giới thiệu việc làm thuộc ngành Lao động – Thương binh và Xã hội theo chiều ngang (trực thuộc các địa phương) dẫn đến tình trạng bị chia cắt về địa lý, chưa thống nhất trong tổ chức, hoạt động của hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm gây nên hạn chế trong việc đầu tư cũng như hoạt động giới thiệu việc làm và thông tin thị trường lao động...của các trung tâm này.

- Thiếu hệ thống chính sách đồng bộ và dài hạn về hỗ trợ cho các trung tâm giới thiệu việc làm, đặc biệt là các chính sách đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị, chính sách  cán bộ, chính sách đào tạo, chính sách tài chính...;

- Chưa có quy định để điều chỉnh các hình thức giới thiệu việc làm mới phát sinh gần đây như: các website đăng tin giới thiệu việc làm, cho thuê lại lao động.... Đặc biệt là hình thức cho thuê lại lao động, bản chất là một hoạt động dịch vụ việc làm nhưng hiện nay lại có một số doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thực hiện hoạt động cho thuê lại lao động  mà chưa được pháp luật cho phép dẫn đến tình trạng khó kiểm soát và dễ dẫn đến tình trạng lao động trá hình (cưỡng bức lao động) gây thiệt thòi cho người lao động và đi ngược lại các quy tắc, thông lệ của Tổ chức Lao động quốc tế [1]

- Quy định về vấn đề thu phí giới thiệu việc làm của Trung tâm giới thiệu việc làm và doanh nghiệp hoạt động giới thiệu việc làm còn chưa khả thi.

* Về tổ chức thực hiện:

- Việc rà soát và quy hoạch hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm của các địa phương, Bộ, ngành, tổ chức chính trị-xã hội còn chưa được chú trọng đúng mức: Sau hơn 4 năm kể từ khi Nghị định số 19/2005/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn có hiệu lực, tỷ lệ các địa phương xây dựng quy hoạch tổng thể về phát triển hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm trên địa bàn cũng mới chỉ đạt 30%. Ngoài ra, một số địa phương, tổ chức chính trị xã hội ra Quyết định thành lập mới Trung tâm trong khi chưa bảo đảm những điều kiện tối thiểu để Trung tâm thành lập và hoạt động theo quy định tại Nghị định số 19/2005/NĐ-CP. Một số địa phương, tổ chức chính trị xã hội không tiến hành thành lập lại Trung tâm theo quy định của Nghị định số 19/2005/NĐ-CP mà chỉ ra Quyết định đổi tên.

-  Nguồn tài chính cho Trung tâm giới thiệu việc làm vẫn còn là vấn đề bức xúc. Nhiều trung tâm giới thiệu việc làm của các hội đoàn thể chỉ được giao biên chế một cách hình thức, không có quỹ lương và chi phí hành chính. Một số Trung tâm giới thiệu việc làm thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội chưa được các địa phương đầu tư đúng mức mà chủ yếu được đầu tư từ nguồn vốn của Trung ương.

- Sự phối hợp hoạt động giữa các Trung tâm còn hạn chế, đặc biệt trong lĩnh vực cung cấp các thông tin thị trường lao động, do vậy chưa phát huy được tối đa năng lực của Trung tâm.

- Sự phối hợp giữa đơn vị chủ quản tổ chức sàn giao dịch là Trung tâm giới thiệu việc làm với các doanh nghiệp, người sử dụng lao động tham gia vào sàn giao dịch còn chưa đồng bộ. Một số doanh nghiệp vẫn chưa quen với việc lập kế hoạch tuyển dụng lao động nên khi hoạt động trên sàn giao dịch còn lúng túng. Nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh vẫn có quan niệm đến sàn là để quảng cáo, quảng bá thương hiệu mà không gắn với nội dung chính là tuyển dụng lao động.

- Chưa có sự kết nối đồng bộ giữa các website với Cổng thông tin điện tử Cục Việc làm. Hiệu quả của các website giao dịch việc làm chưa cao do trình độ CNTT của đại đa số người lao động còn thấp, khả năng tiếp cận thông tin trên mạng Internet còn nhiều hạn chế.

5.3. Đề xuất hướng hoàn thiện trong Luật Việc làm:

- Đổi tên “giới thiệu việc làm” thành “dịch vụ việc làm”

- Thành lập tổ chức dịch vụ việc làm công thống nhất từ Trung ương đến địa phương (trên cơ sở quy hoạch hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm thuộc ngành Lao động – Thương binh và Xã hội) thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Về mô hình cơ cấu tổ chức cụ thể của tổ chức dịch vụ việc làm công do Chính phủ quy định.

- Chuyển các Trung tâm giới thiệu việc làm thuộc Bộ Quốc phòng và các tổ chức, hội đoàn thể sang hoạt động theo mô hình Doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm.

- Bổ sung quy định điều chỉnh hoạt động cho thuê lại lao động với tư cách là 1 nội dung của hoạt động dịch vụ việc làm và chỉ cho phép các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm thực hiện

- Sửa đổi quy định về vấn đề thu phí của tổ chức dịch vụ việc làm công và doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm

6. Thị trường lao động

6.1. Mặt được:

- Thị trường lao động đã được công nhận, các thể chế trên thị trường lao động từng bước được thiết lập phù hợp với nền kinh tế thị trường. Các mối quan hệ trong thị trường lao động mang hình thái của quan hệ kinh tế, trong đó tôn trọng tự do của người lao động, người sử dụng lao động và sự hoạt động của các quy luật kinh tế thị trường.

- Các quy định về chính sách hỗ trợ phát triển thị trường lao động trong nước và ngoài nước; cơ chế, chính sách về chế độ thu thập, báo cáo các chỉ tiêu thông tin thị trường lao động được ban hành đã tạo hành lang pháp lý cho việc xây dựng và phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động, góp phần thúc đẩy kết nối cung-cầu lao động, phát triển thị trường lao động trong và ngoài nước

- Các hoạt động hỗ trợ phát triển thị trường lao động trong nước được triển khai như: Đầu tư nâng cao năng lực hệ thống TTGTVL, thúc đẩy hoạt động giao dịch việc làm;Tổ chức điều tra thị trường lao động, xây dựng cơ sở dữ liệu về thị trường lao động đã góp phần kết nối cung – cầu lao động, cung cấp các thông tin về thị trường lao động như cung, cầu lao động.... bước đầu đáp ứng yêu cầu hoạch định chính sách của các cấp, ngành và địa phương.

- Việc xây dựng và vận hành hệ thống thông tin thị trường lao động ở Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định: nguồn cung cấp thông tin thị trường lao động ngày càng đa dạng, chứa đựng nhiều nội dung bước đầu đã đáp ứng một phần nhu cầu của các nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách cũng như người lao động và người sử dụng lao động; thông tin thị trường lao động ngày càng được phổ biến rộng rãi qua nhiều hình thức giao dịch việc làm phong phú như sàn giao dịch việc làm, hội chợ việc làm, tháng việc làm, điểm hẹn việc làm .... Các phần mềm thị trường được xây dựng đã đáp ứng nhu cầu khai thác thông tin thị trường lao động.

- Các hoạt động hỗ trợ phát triển thị trường lao động ngoài nước được thực hiện như: ký kết các Hiệp định, thỏa thuận hợp tác với nước ngoài về việc đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Hỗ trợ các doanh nghiệp thăm dò, khảo sát và tìm hiểu các điều kiện của thị trường lao động mới, hoạt động củng cố và phát triển thị trường lao động truyền thống; Hỗ trợ hoạt động quảng bá nguồn lao động Việt Nam ở nước ngoài....đã góp phần mở rộng thị trường nhận lao động Việt Nam trên 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề các loại. Hầu hết các địa phương đều thành lập Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động do lãnh đạo Ủy ban nhân dân cùng cấp làm trưởng ban và phân công trách nhiệm cho lãnh đạo các ban, ngành tham gia.

6.2. Mặt hạn chế:

* Về các quy định pháp luật:

- Chính sách phát triển thị trường lao động chưa rõ, chưa hình thành một mô hình hoạt động giao dịch việc làm khoa học,...

- Thiếu các quy định điều chỉnh các vấn đề: xây dựng, khai thác, quản lý dự báo thông tin thị trường lao động, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia thị trường lao động……dẫn đến những tranh chấp không cần thiết, gây thiệt thòi cho người lao động, doanh nghiệp và xã hội.

- Chưa có các định nghĩa thống nhất về các yếu tố cấu thành thị trường lao động cũng như bộ chỉ tiêu hệ thống thông tin thị trường lao động phục vụ cho việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin cho các đối tượng có nhu cầu, dẫn tới hiện trạng cùng một số liệu được nhiều đơn vị công bố với các thông số khác nhau, gây khó khăn cho người sử dụng trong việc lựa chọn một bộ số liệu chính thống;

* Về tổ chức thực hiện:

- Trách nhiệm cung cấp thông tin, báo cáo thông tin về lao động việc làm và thị trường lao động chưa được thực hiện nghiêm túc, thường xuyên.

- Một số địa phương chưa hỗ trợ, đầu tư đúng mức cho việc phát triển thông tin thị trường lao động. Công tác thông tin thị trường lao động chỉ được phát triển chủ yếu ở một số vùng thị trường phát triển mạnh như vùng kinh tế trọng điểm, còn các địa phương khác thông tin thị trường lao động chưa được coi trọng.

6.3. Đề xuất hướng hoàn thiện trong Luật Việc làm:

- Quy định cụ thể về chính sách phát triển thị trường lao động, chính sách hỗ trợ phát triển thị trường lao động trong nước, chính sách hỗ trợ phát triển thị trường lao động ngoài nước.

- Bổ sung các quy định về xây dựng, khai thác, sử dụng, phổ biến, quản lý hệ thống thông tin thị trường lao động, dự báo thị trường lao động; các chỉ tiêu của hệ thống thông tin thị trường lao động….

7. Phát triển kỹ năng nghề

7.1. Mặt được:

- Luật Dạy nghề và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định tương đối cụ thể về việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xây dựng và phát triển hệ thống đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia

- Đã xây dựng và ban hành được 109/129 bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia và ngân hàng đề thi đánh giá kỹ năng, bước đầu hình thành mạng lưới trung tâm đánh giá kỹ năng nghề, xây dựng đội ngũ đánh giá viên và đã triển khai thí điểm đánh giá kỹ năng ở một số nghề cho người lao động.

7.2. Mặt hạn chế:

- Việc quy định hoạt động đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia trong Luật dạy nghề là không hợp lý vì:

+ Phạm vi điều chỉnh của Luật dạy nghề (điều 1) quy định về “tổ chức, hoạt động của cơ sở dạy nghề; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động dạy nghề”.

+ Hoạt động đánh giá kỹ năng thuộc quan hệ lao động, vì vậy tại chương IX Luật dạy nghề về đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia, các quy định về trách nhiệm hướng dẫn thi hành đều giao cho Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về lao động ở trung ương, trong khi các điều luật khác của Luật dạy nghề có các quy định về trách nhiệm hướng dẫn thi hà