Ngay ngày hôm đó, bà lại bắt tàu về Hà Nội, trên tay vẫn xách theo chiếc làn đựng mấy chục quả trứng. Trên suốt chuyến tàu về Hà Nội hôm đó, bà cứ vừa đi vừa ứa nước mắt vì thương người yêu, chẳng còn lòng dạ đâu để ý đến những quá trứng đã vỡ dập vì va chạm trên đường đi.
Bà đến Viện 108 lúc cuối giờ chiều, khi đã hết giờ thăm gặp, nhưng các bác sĩ bệnh viện thấy một cô sinh viên với gương mặt phờ phạc, hoảng hốt, nước mắt ngắn dài đi tìm người yêu bị thương, nên đã phá lệ cho bà vào khoa Mắt của Bệnh viện 108 để tìm người yêu.
Đến giờ nhớ lại giây phút gặp nhau sau mấy năm chiến tranh xa cách, hai ông bà vẫn không kìm được nỗi xúc động. Ông nói: “Những ngày tháng xa nhau, cả hai chúng tôi chỉ mong đến giây phút trùng phùng. Nhưng chẳng ngờ, chúng tôi lại gặp lại nhau trong hoàn cảnh trớ trêu như thế”.
Khi nhìn thấy ông trong tình trạng băng trắng cuốn đầy người, bà lặng người đi, không thể nói được tiếng nào trong suốt một lúc lâu. Đến lúc cất lên được tiếng gọi “anh ơi”, thì giọng bà đã lạc đi, như giọng nói của một người nào khác chứ không phải giọng nói của chính bà.
Trong tình trạng bị băng bó đầy người và với đôi mắt tối đen, ông luôn miệng nói: “Không, giọng nói này khác quá, không phải giọng nói của Song, không phải giọng nói của người yêu tôi. Làm sao Song biết tôi đang ở đây được” – ông bảo, khoảnh khắc đó, ông thực sự không dám tin lại có một điều kỳ diệu như thế đến với mình. Chỉ đến lúc bà nắm tay ông dịu dàng, ông mới thực sự tin bà đang ở bên ông.
Ngày đó, vì mặc cảm bệnh tật, vì thương bà còn trẻ, còn nhiều tương lai phía trước, ông đã hơn một lần đề nghị chia tay. Những lúc ngồi bên nhau, ông vẫn thường bảo bà: “Chúng mình chia tay và sẽ mãi là bạn tốt của nhau. Anh sẽ không bao giờ trách giận em bất cứ điều gì”.
Nhưng bà nói với tôi, bà không bao giờ nghĩ tới việc rời bỏ ông, vì dù ông nói cứng rắn như thế, nhưng trong một lần vô tình cầm cuốn nhật ký của ông, bà đã đọc được những dòng chữ nguệch ngoạc mà ông viết khi mới bị hỏng cả hai mắt: “Mình đã bị hỏng mất đôi mắt thế này, giờ chẳng còn gì cả nữa rồi. Nếu người yêu cũng bỏ mình thì mình chắc không sống nổi mất.
Bà nói: “Tôi cứ nghĩ thế này: người đàn ông tôi yêu đã có cơ hội ở lại, nhưng anh ấy đã tình nguyện ra chiến trường, hi sinh vì đất nước, để rồi bị mất đi đôi mắt. Nếu tôi rời bỏ anh ấy, tôi biết tôi sẽ không thể tha thứ được cho chính mình suốt cuộc đời còn lại, tôi cũng biết tôi sẽ không thể hạnh phúc bên bất cứ người đàn ông nào khác, nếu tôi đành lòng rời bỏ người đàn ông mà tôi thực sự yêu thương”.
Vì lý do đó, mà bà quyết tâm ở lại bên ông, gạt bỏ mọi lời khuyên can, mọi sự lo lắng của gia đình, bạn bè, người thân.
Những ngày người thương binh Cao Văn Thành nằm trong viện 108, người ta thường thấy một cô sinh viên cứ tất bật đi đi lại lại giữa Việt Trì và Hà Nội, vừa làm đồ án tốt nghiệp, vừa lo chăm sóc người yêu. Các bác sĩ ở bệnh viện 108 chứng kiến cảnh tượng đó đã vô cùng xúc động.
Họ tổ chức một buổi gặp gỡ ở hội trường bệnh viện và mời ông lên phát biểu cảm xúc và kể về câu chuyện tình yêu của mình. Ông bảo, chính ông cũng vô cùng xúc động khi cảm nhận được tình yêu chân thành của bà. Để động viên bà và động viên chính bản thân mình trong những ngày u ám đó, thỉnh thoảng ông vẫn nói chuyện với bà như thể đôi mắt ông vẫn bình thường như những ngày xưa cũ.
Có hôm chạm vào tóc bà, thấy bà tết tóc đuôi sam dài, ông khẽ khàng nói: “Anh thấy hôm nay em tết tóc hai bên rất xinh nhé”. Có hôm nghe ai đó nói bà mặc áo màu hồng, ông lại nói với bà đầy âu yếm: “Hôm nay em mặc áo màu hồng nhìn rất đẹp”. Họ đã cùng nhau đi qua nỗi buồn bằng những điều giản dị và nhỏ bé như thế.
Chia nhau đôi mắt, vun đầy tình yêu
Bà kể: “Những ngày ông ấy mới hỏng mắt, tôi luôn có một niềm tin ngây thơ rằng: ông ấy mất hai mắt, nhưng tôi thì vẫn còn cả hai con mắt. Khi nào sức khỏe ông ấy ổn định trở lại, tôi sẽ nhờ các bác sĩ giúp tôi tặng ông ấy một con mắt của tôi.
Như vậy mỗi chúng tôi đều còn lại một con mắt, đều được nhìn thấy ánh sáng và đều cảm thấy hạnh phúc”. Đến giờ, sau mấy chục năm vợ chồng, ước mơ của bà vẫn chưa thành hiện thực, nhưng điều đó chẳng hề gì, vì bà đã luôn là đôi mắt của ông, luôn dìu ông bước đi trong suốt chặng đường dài của cuộc đời mà ông bà đã lựa chọn đi cùng nhau.
Tháng 12/1975, khi sức khỏe của ông đã ổn định và bà đã tốt nghiệp Đại học Bách khoa, ông bà quyết định làm đám cưới. Đến ngày đi đăng ký kết hôn, ông bà mới biết họ có cùng ngày sinh: 2/2/1951. Mọi thứ, với họ đều trùng hợp đến lạ kỳ, như thể đó là định mệnh của họ, như thể số phận của họ đương nhiên phải thế.
Trước ngày cưới, bà đạp xe mấy chục cây từ khu điều dưỡng thương binh đưa ông ra ga Thường Tín để lên tàu về quê, phía sau lỉnh kỉnh chở không biết bao nhiều đồ đạc.
Trong đám cưới ông bà, cô dâu dẫn chú rể đi chào từng mâm khách, từng người họ hàng, làng xóm; trong đám cưới ấy, bà luôn nắm chặt tay ông, luôn chăm chút gắp cho ông từng miếng ăn, lấy cho ông từng cốc nước uống và kéo ghế cho ông ngồi khi cảm thấy ông mệt.
Cưới chồng xong, bà theo chồng về Thanh Hóa. Thời bao cấp khó khăn, cả hai vợ chồng ông bà và 3 người con ở trong một căn phòng chật chội chưa đầy chục mét vuông do cha ông nhường cho. Ngày đó, chế độ của thương bệnh binh chẳng đáng bao nhiêu, gánh nặng gia đình đều dồn lên vai bà.
Ban ngày bà đi làm ở Sở Lương thực, tối về bà nuôi lợn, nuôi gà. Con lợn thứ nhất bán được, bà mua bộ bàn ghế uống nước. Con lợn thứ hai bán được, bà mua chiếc xe đạp. Con lợn thứ ba bán được, bà sắm chiếc bàn học cho con.
Con lợn thứ tư, rồi con lợn thứ năm….cứ thế bà sắm từng thứ đồ vật nhỏ trong gia đình, từ nồi niêu xoong chảo, đến chăn màn, quần áo và lo miếng cơm manh áo cho cả gia đình. Cứ như thế, bà cùng ông xây dựng gia đình, tạo dựng mái ấm và vun đắp cho hạnh phúc nhỏ bé của mình.
Là một người lính, dù mù lòa, ông vẫn luôn giữ được khí chất của một người lính “tàn mà không phế”. Thời còn ở Thanh Hóa, ông đã đi đến từng Sở, Ban, Ngành để xin phép thành lập Hội Người mù thị xã Thanh Hóa, rồi sau này là thành lập Hội Người mù tỉnh Thanh Hóa.
Chính bà là người đã đạp xe đưa ông đi đến khắp các cơ quan, đoàn thể trong tỉnh, để cùng ông trình bày nguyện vọng thành lập hội người mù với các cấp lãnh đạo. Cũng chính bà là người đạp xe đưa ông đi đến khắp các gia đình có người mù quanh thị xã Thanh Hóa để vận động họ vào Hội người mù.
Với những cố gắng của cả hai vợ chồng ông bà, Hội người mù thị xã Thanh Hóa ra đời với 20 thành viên ban đầu, rồi sau này phát triển rộng lớn, trở thành Hội Người mù tỉnh Thanh Hóa. Ông trở thành Chủ tịch đầu tiên của Hội người mù Thanh Hóa. Rồi được tín nhiệm bầu vào giữ vị chí Phó Chủ tịch Trung ương Hội người mù Việt Nam suốt 14 năm qua.
Ông bảo với tôi, mỗi nỗ lực, mỗi thành công của ông trong cuộc sống, đều có dáng dấp của bà, có sự hi sinh và chia sẻ tuyệt đối của bà.
Thời còn yêu nhau, ông thường đạp xe đưa bà đi trên những con đường nhỏ thơ mộng giữa đồi chè ở Phú Thọ. Kể từ ngày cưới nhau, bà luôn là người chở ông trên chiếc xe đạp cọc cạch. Bà đã luôn chở ông đi trong suốt quãng đời sau này, trên chiếc xe đạp đầu tiên, rồi sau này là chiếc Babetta, chiếc Cup 81.
Người phụ nữ nào cũng muốn có được một người chồng để được che chở. Còn bà, đã luôn phải giữ vai trò của một người chủ gánh vác gia đình. Nhưng bà chưa bao giờ cảm thấy thiệt thòi hay ân hận vì điều đó.
Bà nói nếu có điều gì bà ân hận nhất, thì đó chính là việc bà chưa thể thực hiện được ước mơ lớn nhất của mình: tặng cho ông một con mắt mà bà có, để cả ông và bà đều có cơ hội nhìn thấy cuộc sống tươi đẹp xung quanh, cùng nhìn con cái lớn lên, dưng vợ gả chồng, cùng nhìn cháu nội, cháu ngoại chào đời.
Sưu tầm: Thiều Kỳ